Chuyển đến nội dung chính

Các dạng ung thư xương dễ di căn

Ung thư xương tạo xương là loại u ác tính thường gặp nhất, với tỷ lệ mắc bệnh là 0,25/100.000 người mỗi năm. Loại ung thư này thường gặp ở hành xương của phần đầu dưới xương đùi, đầu trên xương chày, đầu trên xương đùi, đầu trên xương cánh tay và xương chậu. 


Phần lớn bệnh nhân ung thư di căn đều ở độ tuổi thanh niên, nam giới có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn so với phụ nữ. Triệu chứng điển hình của bệnh là đau, sưng nề khu vực gần khớp, hạn chế vận động.

Độ ác tính của ung thư xương tạo xương là rất cao, tiến triển nhanh, thường di căn sớm tới phổi và tử vong nếu không được điều trị đúng cách và kịp thời. Phương pháp điều trị chủ yếu cho các bệnh nhân mắc bệnh này là phẫu thuật cắt cụt chi và có thể làm tăng tỷ lệ sống trên 5 năm của người bệnh lên 10 – 20%.

Phần lớn bệnh nhân ung thư xương tạo xương tử vong trong vòng 2 năm đầu sau khi chẩn đoán bệnh. Hóa trị liệu bổ trợ sau phẫu thuật cắt cụt chi cũng có thể áp dụng, phương pháp phẫu thuật cắt bỏ khối u tại chỗ có thể giảm di căn phổi và tăng tỷ lệ sống trên 5 năm đạt tới 60%.

Ung thư sụn nguyên phát


Ung thư sụn nguyên phát ít gặp hơn so với ung thư xương tạo xương và phần lớn khối u loại này đều tiến triển tại chỗ, chủ yếu ở xương sườn, cánh chậu, xương bả vai và độ tuổi mắc bệnh thường ở tuổi 60, tỷ lệ nam mắc bệnh cao hơn so với nữ giới. Triệu chứng của bệnh ung thư sụn nguyên phát thường biểu hiện tại chỗ, ít khi phát hiện khối u qua quan sát bên ngoài, chủ yếu được phát hiện khi chụp x-quang xương.

Ung thư sụn nguyên phát thường tiến triển từ một ổ và có nguy cơ tái phát tại chỗ rất cao nếu không được loại bỏ hết khối u và các tế bào ung thư. Ung thư sụn nguyên phát cũng có khả năng di căn xa, đặc biệt là đến phổi.

Phương pháp điều trị là phẫu thuật cắt bỏ khối u một cách triệt để, cơ hội sống khá cao nếu được thực hiện điều trị ở giai đoạn I và tỷ lệ sống thêm 5 năm cũng khá cao ở giai đoạn III. Tuy nhiên, xạ trị và hóa trị lại hầu như không có hiệu quả với loại ung thư xương này.


Sarcoma Ewing


Sarcoma Ewing có tỷ lệ mắc bệnh chỉ khoảng 0,1/100.000 người mỗi năm, hay gặp ở những người thuộc nhóm tuổi 20 – 30. Bệnh Sarcoma Ewing hầu hết là phát triển ở các chi, nhất là chi dưới và cánh chậu với triệu chứng điển hình là đau đớn, sưng nề tại vị trí phát hiện khối u và đôi khi bệnh nhân bị sốt nhẹ, tăng bạch cầu. Khi chụp x-quang có thể phát hiện thấy giảm mật độ xương và hủy xương, chủ yếu là ở hành xương và đôi khi cũng có ở thân xương.

Sarcoma Ewing tiến triển tại chỗ, di căn sớm và có thể dẫn tới tử vong nếu không được điều trị sớm và đúng cách. Các tế bào ung thư thường di căn đến phổi hoặc những mô khác, kể cả xương khác với tần số cao hơn so với các sarcoma tạo xương.

Phương pháp xạ trị kết hợp với hóa trị có thể nâng cao tỷ lệ sống của bệnh nhân trên 5 năm lên tới 60%. Điều trị sarcoma Ewing ở chi có thể áp dụng phẫu thuật trong mọi giai đoạn nhưng nếu ở xương chậu thì phẫu thuật phải được điều trị ở giai đoạn sớm và kết hợp với những phương pháp trị liệu khác.

Hy vọng những chia sẽ trên của bác sĩ sẽ giúp bạn có những kiến thức bổ ích. Chúc bạn luôn vui vẻ và mạnh khỏe trong cuộc sống.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa trị đau lưng do loãng xương

Các đốt sống thường bị gãy ở phần phía trước của xương. Phần phía trước của xương bị gãy trong khi phần vẫn giữ nguyên vị trí, điều này gây ra tình trạng cột cột sống bị uốn cong hay còn gọi là gù cột sống. Cả gãy xương và đau cơ do sự thay đổi của các cơ bị co rút xung quanh cột sống đều gây đau lưng Xương cột sống chịu trách nhiêm nâng đỡ cơ thể. Khi mật độ xương giảm, xương suy yếu dần và mất khả năng hỗ trợ cơ thể. Ngay cả những hoạt động nhỏ như hắt ho hoặc nâng, nhấc đồ đạc cũng có thể gây gãy xương ở những người bị loãng xương. Các loại điều trị Đau lưng do gãy xương cột sống có thể được điều trị bằng nhiều cách. Các bài tập để tăng cường xương và cơ bắp có thể giúp giảm đau bằng cách giảm gãy xương trong tương lai đồng thời tăng cường sức mạnh cơ bắp.  Một số thuốc có tác dụng làm tăng mật độ xương như bisphosphonates, có thể làm giảm nguy cơ gãy xương. Thuốc chống viêm và thuốc gây ngủ có thể làm giảm đau lưng. Canxi và vitamin D bổ sung cũng giúp củng c...

Thực phẩm cho người ung thư cột sống

Theo các chuyên gia dinh dưỡng, mỗi tuần bệnh nhân ung thư xương cột sống nên ăn ít nhất từ 2 – 4 bữa cá như cá hồi, cá bơn, cá thu hay cá ngừ để cung cấp đầy đủ Omega-3 cho cơ thể, giúp giảm đáng kể tình trạng đau đớn do khối u gây ra. Cá là loại thực phẩm cho người ung thư cột sống chứa hàm lượng cao các acid béo Omega-3 nên có thể giúp giảm viêm, giảm đau hiệu quả do khối u cột sống gây ra. Vì thế, nếu thêm cá vào chế độ ăn uống của mình thì bạn có thể giảm đáng kể những cơn đau đớn do ung thư cột sống gây ra.  Nếu bệnh nhân ung thư cột sống không thể ăn nhiều cá thì có thể bổ sung Omega-3 từ các loại dầu cá nhưng cần có sự hướng dẫn chi tiết của các bác sĩ chuyên khoa để đạt hiệu quả tốt nhất và tránh những biến chứng khó lường có thể xảy ra nếu sử dụng không đúng liều lượng quy định. Ngoài ra, bệnh nhân ung thư cột sống còn được khuyên là nên sử dụng nhiều các loại thực phẩm giàu vitamin B1 như gạo, gạo nâu, kê, lúa mạch, lúa mì, các loại sữa,… trong bữa ăn hằng...

Chụp X-quang chẩn đoán gãy xương do loãng xương

Chụp X quang quy ước là phương pháp đánh giá tình trạng mất xương và loãng xương có độ đặc hiệu thấp. Tuy nhiên X quang quy ước có vai trò quan trọng chẩn đoán gãy xương. Xác định chẩn đoán gãy xương trên phim chụp X quang vùng cổ tay, cổ xương đùi, khung chậu, và xương đùi là tương đối đơn giản, không khó. Việc chẩn đoán xác định gãy cột sống khó khăn hơn vì các lý do sau: Phần lớn các bệnh nhân gãy xương đốt sống do loãng xương không có triệu chứng và thường không được khám và chụp phim X quang để chẩn đoán. Hình dạng của thân đốt ở vùng giữa và phía trước – sau khác nhau, do đó không dễ xác định sự biến đổi có tính chất bệnh lý của thân đốt, biến đổi đó có ý nghĩa về lâm sàng và sinh lý bệnh học của loãng xương. Có 3 thể gãy đốt sống: -Gãy kiểu thấu kính 2 mặt lõm. -Gãy hình chèm. -Xẹp lún toàn bộ đốt sống. Thực tế lâm sàng những thay đổi hình dạng cột sống có thể quan sát được khi khám có ý nghĩa quan trọng. Nhưng những biến đổi kín đáo, mức độ biến dạng nhẹ ...